276000₫
789bet bets Sự trung thành của Childe với mô hình văn hóa lịch sử có thể được thấy rõ trong ba tập sách ''The Dawn of European Civilisation'' (1925), ''The Aryans'' (1926) và ''The Most Ancient East'' (1928), mặc dù không hề có một định nghĩa nào về văn hóa được đưa ra trong cả ba tác phẩm. Phải tới cuốn ''The Danube in Prehistory'' xuất bản vào năm 1929, Childe mới gán cho văn hóa một khái niệm khảo cổ chính xác. Trong tác phẩm này, ông định nghĩa văn hóa là một tập hợp các đặc tính liên kết có quy định trong một nền văn hóa vật chất — tức đồ gốm sứ, công cụ tiện dụng, đồ trang trí, mộ táng, di chỉ — xuất hiện lặp lại xuyên suốt một khu vực địa lý cụ thể. Ông phát biểu rằng, trong khuôn khổ này, văn hóa là khái niệm tương đương với con người. Ở đây, Childe dùng thuật ngữ con người mà không có hàm ý phân biệt chủng tộc, thay vào đó nó có nghĩa là một nhóm xã hội không liên quan đến chủng tộc sinh học. Ông bác bỏ sự đánh đồng giữa văn hóa khảo cổ và chủng tộc sinh học — điều mà bấy giờ được ủng hộ bởi những người dân tộc chủ nghĩa ở châu Âu — đồng thời công kích kịch liệt hành vi lợi dụng khảo cổ học của Quốc Xã, theo đó ông cho rằng người Do Thái không phải một chủng tộc sinh học biệt lập mà đơn thuần chỉ là một nhóm văn hóa xã hội thôi. Năm 1935, ông đề xuất rằng văn hóa có chức năng như một sinh thể sống và nhấn mạnh tiềm năng thích nghi của văn hóa vật chất do chịu ảnh hưởng của thuyết chức năng. Childe chấp nhận rằng giới khảo cổ học định nghĩa văn hóa dựa trên một sự lựa lặt chủ quan tiêu chí vật chất; quan điểm mà về sau được nhà khảo cổ học Colin Renfrew tiếp thu.
789bet bets Sự trung thành của Childe với mô hình văn hóa lịch sử có thể được thấy rõ trong ba tập sách ''The Dawn of European Civilisation'' (1925), ''The Aryans'' (1926) và ''The Most Ancient East'' (1928), mặc dù không hề có một định nghĩa nào về văn hóa được đưa ra trong cả ba tác phẩm. Phải tới cuốn ''The Danube in Prehistory'' xuất bản vào năm 1929, Childe mới gán cho văn hóa một khái niệm khảo cổ chính xác. Trong tác phẩm này, ông định nghĩa văn hóa là một tập hợp các đặc tính liên kết có quy định trong một nền văn hóa vật chất — tức đồ gốm sứ, công cụ tiện dụng, đồ trang trí, mộ táng, di chỉ — xuất hiện lặp lại xuyên suốt một khu vực địa lý cụ thể. Ông phát biểu rằng, trong khuôn khổ này, văn hóa là khái niệm tương đương với con người. Ở đây, Childe dùng thuật ngữ con người mà không có hàm ý phân biệt chủng tộc, thay vào đó nó có nghĩa là một nhóm xã hội không liên quan đến chủng tộc sinh học. Ông bác bỏ sự đánh đồng giữa văn hóa khảo cổ và chủng tộc sinh học — điều mà bấy giờ được ủng hộ bởi những người dân tộc chủ nghĩa ở châu Âu — đồng thời công kích kịch liệt hành vi lợi dụng khảo cổ học của Quốc Xã, theo đó ông cho rằng người Do Thái không phải một chủng tộc sinh học biệt lập mà đơn thuần chỉ là một nhóm văn hóa xã hội thôi. Năm 1935, ông đề xuất rằng văn hóa có chức năng như một sinh thể sống và nhấn mạnh tiềm năng thích nghi của văn hóa vật chất do chịu ảnh hưởng của thuyết chức năng. Childe chấp nhận rằng giới khảo cổ học định nghĩa văn hóa dựa trên một sự lựa lặt chủ quan tiêu chí vật chất; quan điểm mà về sau được nhà khảo cổ học Colin Renfrew tiếp thu.
Cuốn ''Handbook of the Indians of California'' (1925) ước tính dân số bản địa của California có lẽ đã giảm từ 150.000 vào năm 1848 xuống còn 30.000 vào năm 1870, rồi chạm đáy 16.000 vào năm 1900. Sự sụt giảm này xảy ra vì nhiều nguyên nhân: dịch bệnh, tỷ lệ sinh kém, bị bỏ đói, hoặc bị bức hại. Thổ dân California, nhất là trong giai đoạn sốt vàng, trở thành mục tiêu của các cuộc giết hại. Khoảng 10.000-27.000 cũng bị bắt làm nô lệ lao động cho người định cư.