983000₫
fabet 2019 Eusébio đã giúp Bồ Đào Nha đạt vị trí thứ ba tại FIFA World Cup 1966, là tay săn bàn hàng đầu của giải đấu với chín bàn thắng. Ông giành Ballon d'Or năm 1965 và á quân vào các năm 1962 và 1966. Ông là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất mọi thời đại của Benfica với 473 bàn thắng sau 440 trận thi đấu. Ở đó, những danh hiệu của ông bao gồm 11 chức vô địch Primeira Liga và một cúp châu Âu, cũng là một phần không thể thiếu trong việc lọt vào các trận chung kết cúp châu Âu bổ sung vào các năm 1963, 1965 và 1968. Ông là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai, sau Alfredo Di Stéfano, trong kỷ nguyên trước Champions League. của cúp châu Âu với 48 bàn thắng. Ông là vua phá lưới Cúp C1 Châu Âu vào các năm 1964–65, 1965–66 và 1967–68. Ông cũng giành được Bola de Prata cho danh hiệu Vua phá lưới Primeira Liga với kỷ lục bảy lần. Ông là cầu thủ đầu tiên từng giành được Chiếc giày vàng châu Âu, vào năm 1968, một chiến tích mà ông đã lặp lại vào năm 1973.
fabet 2019 Eusébio đã giúp Bồ Đào Nha đạt vị trí thứ ba tại FIFA World Cup 1966, là tay săn bàn hàng đầu của giải đấu với chín bàn thắng. Ông giành Ballon d'Or năm 1965 và á quân vào các năm 1962 và 1966. Ông là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất mọi thời đại của Benfica với 473 bàn thắng sau 440 trận thi đấu. Ở đó, những danh hiệu của ông bao gồm 11 chức vô địch Primeira Liga và một cúp châu Âu, cũng là một phần không thể thiếu trong việc lọt vào các trận chung kết cúp châu Âu bổ sung vào các năm 1963, 1965 và 1968. Ông là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai, sau Alfredo Di Stéfano, trong kỷ nguyên trước Champions League. của cúp châu Âu với 48 bàn thắng. Ông là vua phá lưới Cúp C1 Châu Âu vào các năm 1964–65, 1965–66 và 1967–68. Ông cũng giành được Bola de Prata cho danh hiệu Vua phá lưới Primeira Liga với kỷ lục bảy lần. Ông là cầu thủ đầu tiên từng giành được Chiếc giày vàng châu Âu, vào năm 1968, một chiến tích mà ông đã lặp lại vào năm 1973.
Tương tự như phiên bản A6M6, nhưng loại động cơ Sakae (lúc này đã ngưng sản xuất) được thay thế bằng kiểu động cơ Mitsubishi Kinsei-62 công suất 1560 mã lực (1164 kW), mạnh hơn 60% so với động cơ trên phiên bản A6M2. Điều này đã khiến phải cải biến rộng rãi nắp động cơ và mũi máy bay. Cửa lấy gió cho bộ chế hòa khí lớn hơn nhiều, thêm một ống dẫn dài, tương tự như trên chiếc Nakajima B6N ''Tenzan'' và một mũ cánh quạt lớn hơn, giống máy bay Yokosuka D4Y ''Suisei''. Nắp động cơ lớn hơn, dẫn tới việc loại bỏ súng máy gắn trên nắp động cơ, nhưng các vũ khí khác hầu như không đổi so với Kiểu 52c ''Hei'' với hai pháo 20 mm và hai súng máy 13,2 mm. Thêm vào đó, Kiểu 64 được cải biến để mang hai thùng nhiên liệu phụ vứt được có dung tích 150 lít (40 gal) trên hai cánh, nhằm mang thêm một quả bom nặng 250 kg (550 lb) được gắn trên đế giữa thân. Hai chiếc nguyên mẫu được hoàn tất vào tháng 4 năm 1945, nhưng tình hình hỗn loạn của nền công nghiệp Nhật Bản và việc chiến tranh kết thúc đã đặt dấu chấm hết cho kế hoạch sản xuất 6300 chiếc kiểu này, không có chiếc nào được sản xuất.