189000₫
qh88 cleanmiss Phiên bản Mk. V là một chiếc Tempest khá khác biệt khi so sánh với kiểu Mk. I, với nhiều cải tiến hơn so với các phiên bản trước đó. Phiên bản Mk. V được trang bị kiểu động cơ có khởi đầu đầy sự cố H-24 Napier Sabre, tạo ra công suất trên 2.000 mã lực. Phiên bản Mk. V (trong loạt thứ nhất) trang bị pháo Hispano Mk.II nòng dài với tấm tản nhiệt đục lỗ bao quanh nòng pháo (giống Typhoon). Loạt thứ hai có tính đa dụng hơn với khả năng mang đến 908 kg (2.000 lb) vũ khí bên ngoài và bốn khẩu pháo Hispano Mk. V nòng ngắn với 150 viên đạn mỗi khẩu. Không giống phiên bản Mk. I, bộ tản nhiệt kiểu 'râu' thay thế cho bộ tản nhiệt dầu động cơ ở gốc cánh, vốn được loại bỏ để có được trữ lượng nhiên liệu lớn hơn. Một lần nữa kiểu dáng bên ngoài lại trông giống như chiếc Typhoon, một trong những điểm khác biệt nhận thấy được là sự hiện diện của sống lưng. Việc tăng cường lượng nhiên liệu làm cho tầm bay của phiên bản Mk. V tăng lên đến 1.190 km (740 mi).
qh88 cleanmiss Phiên bản Mk. V là một chiếc Tempest khá khác biệt khi so sánh với kiểu Mk. I, với nhiều cải tiến hơn so với các phiên bản trước đó. Phiên bản Mk. V được trang bị kiểu động cơ có khởi đầu đầy sự cố H-24 Napier Sabre, tạo ra công suất trên 2.000 mã lực. Phiên bản Mk. V (trong loạt thứ nhất) trang bị pháo Hispano Mk.II nòng dài với tấm tản nhiệt đục lỗ bao quanh nòng pháo (giống Typhoon). Loạt thứ hai có tính đa dụng hơn với khả năng mang đến 908 kg (2.000 lb) vũ khí bên ngoài và bốn khẩu pháo Hispano Mk. V nòng ngắn với 150 viên đạn mỗi khẩu. Không giống phiên bản Mk. I, bộ tản nhiệt kiểu 'râu' thay thế cho bộ tản nhiệt dầu động cơ ở gốc cánh, vốn được loại bỏ để có được trữ lượng nhiên liệu lớn hơn. Một lần nữa kiểu dáng bên ngoài lại trông giống như chiếc Typhoon, một trong những điểm khác biệt nhận thấy được là sự hiện diện của sống lưng. Việc tăng cường lượng nhiên liệu làm cho tầm bay của phiên bản Mk. V tăng lên đến 1.190 km (740 mi).
Tháng 2 năm 1967, ông đã tổ chức Công xã Thượng Hải. Tháng 4 năm 1969, ông được bầu làm ủy viên Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng và năm 1973 ông đã được bầu vào Thường vụ Bộ chính trị. Tháng 1 năm 1975, ông trở thành Phó thủ tướng thứ hai. Nỗ lực vươn lên chức vụ cao hơn của ông trong Đảng đã chấm dứt khi ông bị bắt giữ vào tháng 10 năm 1976. Ông bị xử tử hình, cùng với Giang Thanh năm 1981 nhưng sau đó đã được giảm án xuống còn chung thân. Giang Thanh mất năm 1991 ngay sau khi được thả do sức khỏe yếu. Ông cũng được thả với lý do tương tự vào tháng 8 năm 2002 và sống ẩn dật ở Thượng Hải.