945000₫
xsmn 15 3 23 Bằng chứng lâm sàng đáng tin cậy sớm nhất về bệnh đậu mùa được tìm thấy trong các mô tả về căn bệnh giống đậu mùa trong các tác phẩm y học từ Ấn Độ cổ đại (sớm nhất là năm 1500 trước Công nguyên), và Trung Quốc (năm 1122 trước Công nguyên), cũng như một nghiên cứu về xác ướp của vua Ai Cập là Ramses V, người đã chết cách đây hơn 3100 năm (1145 TCN). Người ta suy đoán rằng các thương nhân Ai Cập đã mang bệnh đậu mùa đến Ấn Độ trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, nơi nó vẫn là một bệnh đặc hữu của con người trong ít nhất 2000 năm. Bệnh đậu mùa có lẽ đã xâm nhập vào Trung Quốc trong thế kỷ 1 CN từ phía tây nam, và vào thế kỷ 6 đã từ Trung Quốc lan sang Nhật Bản. Tại Nhật Bản, dịch bệnh năm 735–737 được cho là đã giết chết một phần ba dân số. Ít nhất bảy vị thần tôn giáo đã được gán với riêng cho bệnh đậu mùa, chẳng hạn như thần Sopona trong tôn giáo Yoruba ở Tây Phi. Ở Ấn Độ, nữ thần đậu mùa của đạo Hindu, Shitala, được thờ trong các ngôi đền trên khắp đất nước.
xsmn 15 3 23 Bằng chứng lâm sàng đáng tin cậy sớm nhất về bệnh đậu mùa được tìm thấy trong các mô tả về căn bệnh giống đậu mùa trong các tác phẩm y học từ Ấn Độ cổ đại (sớm nhất là năm 1500 trước Công nguyên), và Trung Quốc (năm 1122 trước Công nguyên), cũng như một nghiên cứu về xác ướp của vua Ai Cập là Ramses V, người đã chết cách đây hơn 3100 năm (1145 TCN). Người ta suy đoán rằng các thương nhân Ai Cập đã mang bệnh đậu mùa đến Ấn Độ trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, nơi nó vẫn là một bệnh đặc hữu của con người trong ít nhất 2000 năm. Bệnh đậu mùa có lẽ đã xâm nhập vào Trung Quốc trong thế kỷ 1 CN từ phía tây nam, và vào thế kỷ 6 đã từ Trung Quốc lan sang Nhật Bản. Tại Nhật Bản, dịch bệnh năm 735–737 được cho là đã giết chết một phần ba dân số. Ít nhất bảy vị thần tôn giáo đã được gán với riêng cho bệnh đậu mùa, chẳng hạn như thần Sopona trong tôn giáo Yoruba ở Tây Phi. Ở Ấn Độ, nữ thần đậu mùa của đạo Hindu, Shitala, được thờ trong các ngôi đền trên khắp đất nước.
''Năm 1959, các đơn vị trực thuộc Tiểu đoàn Trợ chiến được chuyển trực thuộc Bộ Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn Trợ chiến trở thành Bộ chỉ huy Căn cứ (trại) Hoàng Hoa Thám, Đến năm 1965 trở thành Bộ chỉ huy Tổng hành dinh Sư đoàn Nhảy dù. Do đó Tiểu đoàn trưởng Trợ chiến kiêm Chỉ huy trưởng Trại Hoàng Hoa Thám và sau đó là Chỉ huy trưởng Tổng hành dinh Sư đoàn (Thời điểm này Tiểu đoàn Trợ chiến tạm thời giải tán). Đại úy Chuẩn sau cùng là Đại tá Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 3 và mấy ngày cuối cùng nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 101 Biệt động quân tân lập